Trang chủ Đời sốngNgười phụ nữ Việt Nam kiên cường: Tình yêu và hy vọng giữa mất mát

Người phụ nữ Việt Nam kiên cường: Tình yêu và hy vọng giữa mất mát

bởi Linh

Tháng Bảy – tháng của tri ân, của những tưởng nhớ và hoài niệm trong dạt dào cảm xúc thiêng liêng. Chúng tôi đến nhà bà Mã Thị Dung, 89 tuổi, xóm Dẻ Đoóng, xã Hòa An – tấm gương vợ liệt sĩ đã vượt lên nỗi đau mất mát với sự hy sinh cao cả, lòng yêu nước và ý chí kiên cường, sống cuộc đời ý nghĩa trong hành trình góp phần viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc.

Bà Mã Thị Dung và tờ giấy báo tử trở thành vật bất ly thân luôn giữ bên mình 48 năm qua.
Bà Mã Thị Dung và tờ giấy báo tử trở thành vật bất ly thân luôn giữ bên mình 48 năm qua.

Trong căn nhà nhỏ, bà Mã Thị Dung ngồi lặng lẽ với đôi mắt ngấn lệ, bàn tay xù xì nhẹ nhàng đặt lên bức ảnh của người chồng là liệt sĩ Nông Quang Khánh. Nhớ những tháng ngày hạnh phúc ngắn ngủi, nhớ dáng vẻ kiên cường anh dũng của chồng, nhớ mộ phần liệt sĩ trong sắc xanh của đại ngàn Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Trường Sơn.

Giấy báo tử của Liệt sĩ Nông Quang Khánh.
Giấy báo tử của Liệt sĩ Nông Quang Khánh.

Năm 1962, chàng thanh niên mồ côi Nông Quang Khánh nhập ngũ, trong quá trình làm nhiệm vụ đã quen và cảm mến cô gái thùy mị, xinh đẹp Mã Thị Dung khi đó là đội viên thanh niên xung phong. Đầu năm 1964, hai người nên duyên vợ chồng, cuối năm 1964 hạnh phúc nhân đôi khi hai vợ chồng đón cô con gái đầu lòng Nông Thị Bền và đầu năm 1967 tiếp tục đón con trai Nông Trung Kiên ra đời.

Nhưng hạnh phúc ngắn ngủi chẳng tày gang, đến tháng 6/1967, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc bước vào giai đoạn ác liệt, chồng bà đã xung phong vào chiến trường phía Nam để được trực tiếp chiến đấu góp phần giải phóng quê hương. Hòa cùng vào đoàn quân Nam tiến, ông Khánh lên đường đánh giặc, còn bà Dung ở nhà trở lại công việc hằng ngày, chăm sóc con nhỏ cùng nỗi nhớ chồng cồn cào, da diết.

Chiến tranh khốc liệt, bà Dung không nhận được tin tức hay lá thư nào của chồng nhưng bà Dung luôn vững tin, tự nhủ chồng bà sẽ trở về, 2 con sẽ được ở bên người cha bằng xương, bằng thịt chứ không phải qua những câu chuyện bà kể.

Nhưng chiến tranh kết thúc mà chồng bà mãi vẫn không trở về, đến năm 1977, sau bao mong ngóng thông tin của chồng, bà Dung nhận được là tin báo tử, máu xương người chồng bà thương nhớ đã hòa quyện nơi chiến trường.

Đau đớn là thế nhưng bà cố gắng gượng đứng lên vì 2 con, vì niềm tự hào khi chồng anh dũng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc trở thành động lực mạnh mẽ giúp bà không quản khó khăn, mất mát. Sau niềm an ủi đã tìm được mộ phần của chồng, bà Dung trăn trở với nỗi niềm nên đưa ông về với quê hương để con cái được gần gũi chăm sóc phần mộ và để xứng đáng với tình hiếu nghĩa, đạo lý vợ chồng hay để ông nằm lại nơi chiến trường nơi ông và các đồng đội đã anh dũng chiến đấu và hy sinh.

Hằng năm, bà và các con lại thu xếp thời gian vào thăm mộ ông Khánh, đến năm 2000, bà Dung mạnh mẽ quyết định không di dời hài cốt ông về với gia đình mà để ông Khánh yên nghỉ nơi linh thiêng khu mộ liệt sĩ Cao Bằng của Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Trường Sơn.

Người vợ liệt sĩ như bà Mã Thị Dung cũng như bao người phụ nữ Việt Nam khác đều đã gói lại niềm riêng, sẵn sàng gạt tình yêu, hạnh phúc gia đình sang một bên để chồng yên tâm lên đường bảo vệ Tổ quốc. Mạnh mẽ vượt lên mọi mất mát, đau thương vẫn một lòng thờ chồng, nuôi con trưởng thành, là hậu phương vững chắc cho người lính đã nằm lại chiến trường phía Nam, góp phần cho đất nước hôm nay nở hoa.

Chúng tôi rời nhà bà Mã Thị Dung với những cảm xúc sâu lắng, thêm một lần nữa, chúng tôi được chứng kiến sự hy sinh cao cả và lòng yêu nước của một người phụ nữ Việt Nam. Câu chuyện về bà Dung là một phần không thể thiếu trong lịch sử của dân tộc, là tấm gương sáng cho các thế hệ sau này học tập và noi theo.

Chuyến thăm nhà bà Mã Thị Dung đã để lại cho chúng tôi nhiều suy nghĩ và cảm nhận sâu sắc về sự hy sinh và lòng yêu nước của người dân Việt Nam. Chúng tôi tin rằng, câu chuyện về bà Dung sẽ được lưu truyền mãi mãi, là nguồn cảm hứng cho các thế hệ sau này.

Có thể bạn quan tâm